Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc để văn hóa, con người Việt Nam thật sự trở thành sức mạnh nội sinh, tạo động lực cho phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc là nhiệm vụ được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm. Đây cũng chính là cơ sở quan trọng trong việc định hướng, xây dựng chính sách bảo tồn, phát huy, quảng bá giá trị văn hóa các dân tộc thiểu số trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay.
Các dân tộc thiểu số ở Việt Nam cư trú trên ¾ diện tích đất nước, tập trung chủ yếu vùng rừng núi, trung du, vùng biên giới, hải đảo, vùng sâu, vùng xa. Văn hóa các dân tộc thiểu số ở nước ta vừa có tính thống nhất, vừa có tính đa dạng. Thống nhất là bởi nền văn hóa Việt Nam được định hình, chọn lọc từ quá trình đoàn kết chống giặc ngoại xâm, mở mang bờ cõi; từ quá trình đắp đê, trị thủy, bảo vệ mùa màng; từ lòng yêu nước sâu sắc…
Tính đa dạng bởi đồng bào các dân tộc thiểu số cư trú trong những điều kiện tự nhiên, địa lý, khí hậu khác nhau, mang đặc trưng vùng miền. Bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa dân tộc thiểu số có vai trò quan trọng nhằm bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay.
Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII của Đảng khẳng định: “Di sản văn hóa là tài sản vô giá, gắn kết cộng đồng dân tộc, là cốt lõi của bản sắc dân tộc, cơ sở để sáng tạo những giá trị mới và giao lưu văn hóa”. Mục tiêu: “Xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân - thiện - mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học”. ĐếnNghị quyết Hội nghị Trung ương 9 khóa XI “Về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước” tiếp tục khẳng định quan điểm xây dựng văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, thống nhất trong đa dạng của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, với các đặc trưng dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học. Nghị quyết cũng nhấn mạnh nhiệm vụ giữ gìn và phát huy di sản văn hóa các dân tộc thiểu số, nhất là tiếng nói, chữ viết, trang phục, lễ hội truyền thống; chủ động đón nhận cơ hội phát triển, vượt qua thách thức để giữ gìn, hoàn thiện bản sắc văn hóa dân tộc. “Xây dựng văn hoá trong chính trị và kinh tế... vì sự phát triển bền vững của đất nước, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” được Đại hội XII của Đảng đề ra, tiếp tục thể hiện quan điểm của Đảng về xây dựng văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu hội nhập. Nhờ đó, văn hoá từng bước trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Văn kiện Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh quan điểm phát triển: “Khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, ý chí tự cường và phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc... lấy giá trị văn hóa, con người Việt Nam là nền tảng, sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững”, “Khắc phục sự chênh lệch về trình độ phát triển và đời sống văn hóa giữa các vùng, miền, các giai tầng xã hội, đặc biệt quan tâm đến vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào các dân tộc thiểu số... Quan tâm, tạo điều kiện phát triển văn hóa, văn nghệ của các dân tộc thiểu số”.
Thể chế hóa quan điểm, chủ trương của Đảng, thời gian qua, Nhà nước đã ban hành các chính sách nhằm phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số, tập trung vào một số lĩnh vực cơ bản sau:
Một là, chính sách bảo tồn, phát huy tiếng nói, chữ viết các dân tộc thiểu số
Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành nhiều văn bản liên quan đến công tác giáo dục ngôn ngữ đối với vùng đồng bào dân tộc thiểu số... Thực hiện chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước về việc bảo tồn tiếng nói, chữ viết dân tộc thiểu số, 27/53 dân tộc thiểu số có bộ chữ viết riêng của dân tộc mình, như Tày, Thái, Hoa, Khmer, Nùng, Mông, Gia-rai, Ê-đê, Ba-na, Xơ-đăng, Chăm, Cơ-ho, Mnông... được bảo tồn.
Học sinh Khmer học chữ
Hai là, chính sách bảo tồn, phát triển các di sản văn hóa truyền thống vùng đồng bào dân tộc thiểu số
Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 1270/QĐ-TTg, ngày 27-7-2011, “Phê duyệt Đề án “Bảo tồn, phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số Việt Nam đến năm 2020”” nhằm huy động sức mạnh của toàn xã hội phát triển văn hóa dân tộc, góp phần để văn hóa thực sự là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng - an ninh, toàn vẹn chủ quyền lãnh thổ quốc gia, hướng tới bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa truyền thống của các dân tộc thiểu số phù hợp với tình hình thực tế...; Quyết định số 2493/QĐ-TTg, ngày 22-12-2016, “Phê duyệt Đề án Kiểm kê, sưu tầm, bảo quản, trưng bày, tuyên truyền di sản văn hóa truyền thống điển hình của các dân tộc thiểu số Việt Nam giai đoạn 2017 - 2020”, hướng tới mục tiêu huy động nguồn lực của toàn xã hội cùng tham gia gìn giữ, bảo tồn và phát triển văn hóa dân tộc; tạo chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức và ý thức bảo vệ, phát huy giá trị di sản văn hóa của toàn xã hội, các chủ thể văn hóa và tổ chức, cá nhân có liên quan. Quyết định số 936/QĐ-TTg, ngày 30-6-2017, “Phê duyệt Chương trình mục tiêu phát triển văn hóa giai đoạn 2016 - 2020”, trong đó có mục tiêu bảo tồn và phát huy giá trị các di sản văn hóa đặc sắc của dân tộc; phát triển các công trình văn hóa hiện đại, có ý nghĩa biểu tượng quốc gia, ý nghĩa chính trị, lịch sử, truyền thống đặc sắc hướng tới mục tiêu chiến lược xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc... Các di tích lịch sử văn hóa và danh lam thắng cảnh vùng đồng bào dân tộc thiểu số cũng được lập hồ sơ khoa học, xếp hạng cấp quốc gia và quốc gia đặc biệt. Việt Nam đã có nhiều di sản được UNESCO công nhận là di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại, như Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên (năm 2008); Thực hành Then của người Tày, Nùng, Thái ở Việt Nam (năm 2019); Nghệ thuật Xòe Thái (năm 2022)...

Vòng xòe đại đoàn kết tại lễ vinh danh “Nghệ thuật xòe Thái” được UNESCO ghi danh là di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại
Cùng với việc ban hành các văn bản trên, xác định những người có uy tín, già làng, trưởng bản, các nghệ nhân có một vai trò đặc biệt quan trọng trong việc bảo tồn, trao truyền, phát huy các giá trị văn hóa đặc trưng, tiêu biểu của các dân tộc thiểu số, hằng năm, Đảng và Nhà nước tổ chức gặp mặt già làng, trưởng bản, những người có uy tín là người dân tộc thiểu số, trao tặng danh hiệu nghệ nhân nhân dân, nghệ nhân ưu tú cho các nghệ nhân đã có nhiều cống hiến xuất sắc trong gìn giữ và phát huy di sản văn hóa phi vật thể của dân tộc, như nghệ thuật trình diễn dân gian; tập quán xã hội và tín ngưỡng; tri thức dân gian; ngữ văn dân gian; tiếng nói, chữ viết; lễ hội truyền thống...
Ba là, chính sách bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của các dân tộc thiểu số gắn với phát triển du lịch.
Thời gian qua, nhiều địa phương trên cả nước đã khai thác các giá trị văn hóa địa phương, tạo nên những sản phẩm du lịch khá hấp dẫn. Một số mô hình phát triển du lịch đã hình thành và hoạt động khá hiệu quả, như du lịch cộng đồng người Thái ở Bản Mển (xã Thanh Nưa, huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên) và Bản Áng (xã Đông Sang, huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La)... Việc triển khai chính sách bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống dân tộc thiểu số gắn với phát triển du lịch khá hiệu quả, góp phần vừa phục hồi, bảo tồn, phát huy nhiều giá trị văn hóa đặc trưng, tiêu biểu của các vùng, miền trên cả nước, vừa tạo thêm việc làm, tăng thu nhập; qua đó, thúc đẩy quá trình xóa đói, giảm nghèo tại vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi.
Rừng thông bản Áng (xã Đông Sang, huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La)
Bốn là, chính sách truyền thông đối với vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
Một số chính sách liên quan đến công tác truyền thông đã được ban hành, góp phần tuyên truyền chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội nói chung và chính sách bảo tồn, phát huy văn hóa dân tộc thiểu số nói riêng đến với đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, như các quyết định của Thủ tướng Chính phủ. Đài Tiếng nói Việt Nam, Đài Truyền hình Việt Nam, các đài phát thanh, truyền hình địa phương, các cơ quan báo chí và truyền thông trên cả nước cũng tích cực phủ sóng và nâng cao hiệu quả hoạt động thông tin, tuyên truyền về công tác dân tộc trên khắp mọi miền Tổ quốc.
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, hệ thống chính sách văn hóa đối với các dân tộc thiểu số còn ít và chưa đồng bộ, chưa phù hợp với đặc thù vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, tốc độ phát triển kinh tế - xã hội. Việc tổ chức thực hiện chính sách còn chậm, chưa thực sự đi vào cuộc sống... Nguồn lực đầu tư hỗ trợ bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc thiểu số còn hạn chế, sử dụng thiếu hiệu quả. Nhận thức một bộ phận không nhỏ các ngành, các cấp về văn hóa dân tộc thiểu số còn hạn chế. Chính sách đãi ngộ chưa thỏa đáng nên chưa phát huy được hiệu quả tài năng, tâm huyết của đội ngũ trí thức, nghệ nhân dân gian dân tộc thiểu số. Chính sách bảo tồn, khai thác và phát huy giá trị văn hóa truyền thống dân tộc theo các lĩnh vực cụ thể, chính sách tái tạo môi trường, khôi phục cảnh quan, không gian sinh tồn của đồng bào dân tộc thiểu số chưa được quan tâm định hướng và thể hiện một cách rõ ràng.
Thời gian tới, để tiếp tục hoàn thiện chính sách bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa các dân tộc thiểu số, cần thực hiện đồng bộ một số giải pháp sau:
Một là, nâng cao nhận thức trong công tác hoạch định, xây dựng và thực hiện chính sách bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa truyền thống của các dân tộc thiểu số.
Chính sách bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa các dân tộc thiểu số phải gắn với chính sách phát triển quốc gia - dân tộc, chính sách phát triển của vùng, chú ý đến tính toàn diện, tính đặc thù. Quá trình hoạch định, xây dựng và thực hiện chính sách phải xuất phát từ thực tiễn, từ tiềm năng, lợi thế, tính đặc thù của từng vùng, từng địa phương, từng tộc người và phải đặt trong tổng thể sự phát triển quốc gia, dân tộc. Cần có thái độ tôn trọng đối với di sản văn hóa các dân tộc thiểu số. Tăng cường các hoạt động bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống tiêu biểu, đặc trưng và phù hợp với điều kiện mới; bảo đảm hài hòa giữa mối quan hệ giữa bảo tồn và phát huy, bảo tồn và phát triển, nhất là phát triển bền vững về văn hóa, đặt trong mối quan hệ với kinh tế - xã hội.
Hai là, đổi mới công tác tuyên truyền.
Bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế cùng cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra mạnh mẽ, công tác quản lý nhà nước về văn hóa phải có sự thay đổi trong tư duy và hành động. Bên cạnh việc tiếp tục nâng cao nhận thức về vai trò của văn hóa các dân tộc thiểu số, cần tiếp tục đầu tư xây dựng, hoàn thiện tổ chức bộ máy quản lý văn hóa. Đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền nâng cao nhận thức về công tác bảo tồn văn hóa, về công tác quản lý văn hóa vùng đồng bào dân tộc thiểu số, nhất là đối với thế hệ trẻ, củng cố niềm tự hào, ý thức và trách nhiệm của mỗi người dân trong gìn giữ và phát huy giá trị văn hóa của các dân tộc thiểu số.
Ba là, bồi dưỡng, xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác dân tộc và quản lý văn hóa dân tộc thiểu số, nâng cao hiệu quả hoạt động quản lý nhà nước về văn hóa các dân tộc thiểu số.
Chú trọng công tác tuyển dụng công chức, viên chức được đào tạo đúng chuyên môn, nghiệp vụ; thường xuyên bồi dưỡng, cập nhật kiến thức trong tình hình mới đối với đội ngũ làm công tác dân tộc và quản lý văn hóa dân tộc thiểu số. Có cơ chế phát huy vai trò của các nghệ nhân, già làng, trưởng bản trong việc bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống ở các vùng đồng bào dân tộc thiểu số; khuyến khích cộng đồng tham gia bảo tồn những giá trị văn hóa truyền thống đặc sắc, ngăn chặn nguy cơ làm mai một, sai lệch hoặc thất truyền. Tiếp thu thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư trong quản lý văn hóa, như số hóa những dữ liệu cốt lõi gắn với bản sắc văn hóa đặc trưng của các dân tộc thiểu số; từ đó, có thể lựa chọn đăng tải trên các phương tiện thông tin và truyền thông để đông đảo người dân có điều kiện tiếp cận, tương tác, tìm hiểu thuận lợi hơn.
Bốn là, tiếp tục thực hiện hiệu quả chính sách phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm ổn định đời sống cho vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
Cùng với phát triển kinh tế, Nhà nước và các cấp chính quyền địa phương cần quan tâm bố trí đủ nguồn lực cho các chương trình, dự án, đề án, nghiên cứu khoa học về bảo tồn di sản văn hóa dân tộc thiểu số và nâng cao hiệu quả công tác quản lý văn hóa vùng đồng bào dân tộc thiểu số; trong đó có chính sách hỗ trợ, phục dựng các lễ hội truyền thống, các sản phẩm văn hóa truyền thống. Tôn vinh và có chính sách đãi ngộ đối với nghệ nhân, nghệ sĩ có công tạo dựng các công trình, sản phẩm văn hóa; phổ biến, truyền dạy nghệ thuật truyền thống, bí quyết nghề nghiệp đối với vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Hỗ trợ các mô hình văn hóa đặc sắc, mô hình điểm ở các bản, làng; hỗ trợ việc bảo tồn tiếng nói và chữ viết. Để tăng cường nguồn lực cho phát triển văn hóa, chú trọng đến vấn đề xã hội hóa các hoạt động văn hóa với sự tham gia và giám sát chặt chẽ của các cơ quan quản lý nhà nước. Trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội, cần chú ý đến môi trường, không gian phù hợp để đồng bào các dân tộc thiểu số hoạt động, phát triển và sáng tạo văn hóa. Phát huy vai trò chủ động, trách nhiệm và tính phản biện trong việc thực hiện chính sách văn hóa.
Việt Nam tự hào có nền văn hóa lâu đời, đa dạng, phong phú, giàu bản sắc. Đó là những lợi thế quan trọng cần được khai thác, phát huy mạnh mẽ trong điều kiện hiện nay. Phát triển trong bối cảnh mới, nền văn hóa dân tộc thiểu số cần phát huy tốt sứ mệnh cũng như vai trò, thế mạnh để văn hóa không chỉ nâng cao nhận thức, giáo dục, đáp ứng nhu cầu tinh thần của người dân Việt Nam mà còn là nguồn lực nội sinh quan trọng góp phần phát triển kinh tế-xã hội, bảo đảm cho quá trình phát triển nhanh và bền vững của đất nước.