TÌM HIỂU QUAN ĐIỂM VỀ DÂN CHỦ CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VÀ NHỮNG ĐIỂM MỚI BỔ SUNG, PHÁT TRIỂN TẠI ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU TOÀN QUỐC LẦN THỨ XIII CỦA ĐẢNG
Dân chủ, là một trong những quyền thiêng liêng, chính đáng, cao cả mà con người hướng đến để con người được phát triển toàn diện về mọi mặt trong từng lĩnh vực kinh tế - xã hội. Dân chủ được vận dụng vào tổ chức và hoạt động của những thiết chế chính trị nhất định. Đối với Việt Nam, dân chủ được xác định là bản chất mang tính đặc trưng của nhà nước ta hiện nay, điều đó đã được khẳng định trong Hiến pháp năm 2013 như sau: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa (XHCN) Việt Nam là nhà nước pháp quyền XHCN của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân…”. [1]
Với mong muốn hướng tới giá trị thực của dân chủ, sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã suốt đời đấu tranh không mệt mỏi cho nhân dân Việt Nam có được một cuộc sống độc lập, tự do, dân chủ và giàu mạnh. Hiện thức hóa lý tưởng lớn lao đó của Chủ tịch Hồ Chí Minh, xác định được tính đúng đắn, ý nghĩa to lớn của nền dân chủ trong thực tiễn, trong suốt hơn 90 năm xây dựng và phát triển, Đảng ta lãnh đạo nhân dân đấu tranh gian khổ để giành lại được nền độc lập và từng bước xây dựng chủ nghĩa xã hội, để có được một “cơ đồ” như ngày hôm nay, Đảng luôn xác định việc phát huy dân chủ, thực hành dân chủ trong thực tế là một trong những yêu cầu, nội dung mang tính chất cốt lõi trong đường hướng cách mạng. Với bối cảnh đặt ra trong từng giai đoạn lịch sử, việc không ngừng bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của người dân, coi đó là động lực, làm mục tiêu hướng đến sự thắng lợi trên mọi lĩnh vực không phải là điều dễ dàng thực hiện ngày một, ngày hai, do đó, bên cạnh những thời cơ đan xen thách thức, đặt ra đối với Đảng, Nhà nước ta khi thực hiện vấn đề dân chủ phải thực sự khéo léo, có những bước đi thận trọng, quyết tâm cao độ để thực hiện các mục tiêu, điều đó được thể hiện rõ ràng nhất qua các quan điểm của Đảng ta tại các nhiệm kỳ Đại hội.
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI (1986) của Đảng ta có thể nói là Đại hội đánh dấu một mốc son, một bước ngoặt lớn lao, toàn diện về mọi mặt, mở đầu cho sự nghiệp đổi mới của đất nước, bài học kinh nghiệm mà Đảng ta đã rút ra là “đổi mới phải lấy dân làm gốc”, đồng thời qua đó làm rõ được nội dung của bài học kinh nghiệm đó để các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước phải luôn luôn xuất phát từ những nhu cầu và lợi ích của nhân dân, đáp ứng được nguyện vọng của đại đa số nhân dân lao động
[1] Quốc hội (2013), Hiến pháp năm 2013, Hà Nội.
Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII (1991) của Đảng với việc thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đã trọng tâm nhấn mạnh tới việc xây dựng một xã hội do nhân dân làm chủ, Đảng khẳng định: “toàn bộ tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị ở nước ta là nhằm củng cố, hoàn thiện nền dân chủ XHCN, phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động”.[1]
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII (tháng 6/1996) đã xác định: “Xây dựng nền dân chủ XHCN là một nội dung cơ bản của đổi mới của hệ thống chính trị ở nước ta. Phải có cơ chế và cách làm cụ thể để thực hiện phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” đối với các chủ trương, chính sách lớn của Đảng và Nhà nước”[2]. Việc ban hành Chỉ thị số 30-CT/TW sau đó chính là một trong những sự cụ thể hóa thể hiện vai trò lãnh đạo của Đảng ta về vấn đề thực hiện dân chủ.
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng (2001), được xem là Đại hội của của trí tuệ, dân chủ, đoàn kết và đổi mới, Đảng ta đã tiến hành tổng kết, nhìn lại toàn bộ quá trình lãnh đạo cách mạng (từ năm 1930 đến năm 2001), 15 năm thực hiện đường lối đổi mới (1986 - 2001), 10 năm thực hiện Cương lĩnh đề ra tại Đại hội VII (1991 - 2001). Trên cơ sở đó, Đảng đã khái quát tư tưởng lớn về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam; trong đó, tư tưởng coi sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, sức mạnh làm chủ của nhân dân là một trong những động lực chủ yếu, quan trọng để thực hiện thắng lợi mục tiêu “độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, thể hiện sự kiên định, quyết tâm cao độ với việc tiếp tục phát triển nền dân chủ XHCN trong tình hình mới, Đảng đã khẳng định “sự nghiệp đổi mới là vì lợi ích của nhân dân, do nhân dân thực hiện, do đó, là sự nghiệp của chính nhân dân”.[3]
Để đáp ứng những yêu cầu, đòi hỏi đặt ra của đất nước trong thời kỳ mới, đến Đại hội lần thứ X (2006), Đảng đã rút ra năm bài học lớn, trong đó vấn đề dân chủ tiếp tục trở thành vấn đề cốt yếu của nhà nước XHCN, bài học thứ năm đã nêu rõ: “nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, không ngừng đổi mới hệ thống chính trị, xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ XHCN, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân”.[4]
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng (2011), một lần nữa khẳng định cần phải tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ XHCN, bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân; mọi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân; cán bộ, công chức phải hoàn thành tốt chức trách, nhiệm vụ được giao, tôn trọng nhân dân, tận tụy phục vụ nhân dân. Nâng cao ý thức về quyền và nghĩa vụ công dân, năng lực làm chủ, tham gia quản lý xã hội của nhân dân; có cơ chế cụ thể để nhân dân thực hiện trên thực tế quyền làm chủ trực tiếp. Qua thực tiễn 25 năm thực hiện đường lối đổi mới, Đảng đã có những phát triển mới trong nhận thức về dân chủ, quan niệm về dân chủ ngày càng được mở rộng. Dân chủ được xem xét nhiều khía cạnh: Dân chủ là chế độ chính trị, dân chủ là giá trị, dân chủ là phương thức và nguyên tắc tổ chức xã hội, dân chủ chung đối với xã hội và dân chủ với mỗi cá nhân, dân chủ trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Dân chủ phản ánh một bước chuyển mình từ thể chế chính trị dựa trên áp lực, mang tính tuân thủ mệnh lệnh hành chính sang thể chế mang tính hợp tác, đồng thuận đầy trách nhiệm. Với việc đưa dân chủ - một mục tiêu của XHCN, Đảng ta đã quán triệt sâu sắc và hoàn thiện hơn hệ mục tiêu XHXN “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Đặc biệt dân chủ không chỉ là mục tiêu, mà còn là động lực phát triển nhanh và bền vững của đất nước, vì nó phát huy được tính tự giác, chủ động, tích cực, giải phóng năng lực sáng tạo, hướng tới tính chủ động của con người, điều này đã được thể hiện rõ: “Dân chủ XHCN là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất nước. Xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ XHCN, bảo đảm dân chủ được thực hiện trong thực tế cuộc sống ở mỗi cấp, trên tất cả các lĩnh vực. Dân chủ gắn liền với kỷ luật, kỷ cương và phải được thể chế hóa bằng pháp luật, được pháp luật bảo đảm”.
Để phát huy dân chủ XHCN, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng đã khẳng định: “Tiếp tục thực hiện tốt dân chủ ở cơ sở, thể chế hóa và thực hiện phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra””[5]; “Tiếp tục phát huy dân chủ XHCN, bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân… phải xuất phát từ nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân, được nhân dân tham gia ý kiến. Dân chủ phải được thực hiện đầy đủ, nghiêm túc trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Bảo đảm để nhân dân tham gia ở tất cả các khâu của quá trình đưa ra những quyết định liên quan đến lợi ích, cuộc sống của nhân dân, từ nêu sáng kiến, tham gia thảo luận, tranh luận đến giám sát quá trình thực hiện. Tập trung xây dựng những văn bản pháp luật liên quan trực tiếp đến quyền làm chủ của nhân dân”[6].
Có thể thấy, nền dân chủ XHCN mà Đảng ta hướng tới xây dựng, hoàn thiện là nền dân chủ mang tính rộng rãi, toàn diện, được thực hiện thông qua hệ thống chính trị XHCN, mà đầu tiên và trước hết là Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam không ngừng được mở rộng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động, thu hút đông đảo nhân dân lao động tham gia vào công việc quản lý nhà nước, quản lý xã hội nhằm phục vụ cho lợi ích của đại đa số nhân dân lao động và đảm bảo quyền làm chủ cả về mặt pháp lý cũng như trên thực tế. Mục tiêu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN là một phương hướng, cách thức cơ bản để phát huy dân chủ và thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, vì trong thực tế nhà nước có trách nhiệm để quyền lực thuộc về nhân dân, thông qua trực tiếp hay gián tiếp, thể hiện rõ trong từng vực cơ bản.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII (2021), Đại hội đánh dấu mốc quan trọng, đánh giá những thành tựu của 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991, đặc biệt, qua 10 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) đã một lần nữa khẳng định đường lối đổi mới của Đảng là hoàn toàn đúng đắn. Những kết quả vô cùng to lớn đó là kết tinh sức sáng tạo của Đảng và nhân dân ta, khẳng định con đường tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội của đất nước là hoàn toàn phù hợp với điều kiện thực tế và xu thế phát triển của thời đại; khẳng định sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Trong bối cảnh tình hình thế giới có nhiều biến động nhanh, phức tạp, Cương lĩnh tiếp tục là “ngọn cờ” tư tưởng, “ngọn cờ” chiến đấu, “ngọn cờ” quy tụ, tổng hợp vì một nước Việt Nam XHCN phát triển ổn định và phồn thịnh.
Đại hội lần thứ XIII của Đảng một lần nữa khẳng định: “Thực hiện đúng đắn, hiệu quả dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện, đặc biệt là dân chủ ở cơ sở. Thực hiện tốt, có hiệu quả phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng””.[7]
Như vậy, Đại hội XIII đã bổ sung, cụ thể thêm một bước tư tưởng phục vụ nhân dân trong đường lối chủ trương của Đảng. “Dân giám sát, dân thụ hưởng” chính là sự phát triển về chủ trương, quan điểm của Đảng, có ý nghĩa thiết thực, quan trọng. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhấn mạnh: “…trong mọi công việc của Đảng và Nhà nước, phải luôn quán triệt sâu sắc quan điểm “dân là gốc”; thật sự tin tưởng, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, kiên trì thực hiện phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”[8].
Đồng thời, Đại hội xác định rõ hơn vai trò “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội làm nòng cốt”[9] để nhân dân làm chủ. Đảng và Nhà nước ban hành đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật tạo nền tảng chính trị, pháp lý, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền làm chủ của nhân dân. Cấp ủy, tổ chức đảng, các tổ chức trong hệ thống chính trị, đội ngũ đảng viên, cán bộ, công chức, viên chức nêu gương thực hành dân chủ, tuân thủ pháp luật, đề cao đạo đức xã hội. Tiếp tục khẳng định “vai trò chủ thể, vị trí trung tâm của nhân dân trong chiến lược phát triển đất nước, trong toàn bộ quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”[10] và đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước là nền tảng chính trị, pháp lý để nhân dân thực hiện quyền làm chủ. Điều đó đòi hỏi phải phát huy tính tích cực chính trị - xã hội, trí tuệ, quyền và trách nhiệm của nhân dân tham gia xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội, xây dựng đội ngũ đảng viên, cán bộ, công chức.
Ngoài ra, trên tinh thần đó, Đại hội nhấn mạnh nội dung “động viên nhân dân tham gia phát triển kinh tế; góp phần quản lý xã hội thông qua các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội nghề nghiệp, các hoạt động tự quản cộng đồng; xây dựng, quản lý, thụ hưởng văn hóa”. Xây dựng nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân, ngoại giao nhân dân gắn với thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân, thế trận lòng dân. Trên cơ sở đó “xử lý kịp thời, nghiêm minh những tổ chức, cá nhân lợi dụng dân chủ, gây rối nội bộ, làm mất ổn định chính trị - xã hội hoặc vi phạm dân chủ, làm phương hại đến quyền làm chủ của nhân dân”.[11]
Có thể nói, từ việc xác định đúng đắn tầm quan trọng của dân chủ trong công cuộc đổi mới đất nước hiện nay, Đảng ta đã có nhiều chủ trương, chính sách về thực hiện dân chủ trong đời sống xã hội. Đại hội lần thứ XIII của Đảng là sự tiếp tục khẳng định những bước tiến trong nhận thức lý luận và thực hành dân chủ ở Việt Nam. Bảo đảm dân chủ, phát huy quyền làm chủ của nhân dân sẽ tạo ra sức mạnh to lớn để đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng trong Đảng. Đó cũng là cách để xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN thực sự của nhân d ân, do nhân dân và vì nhân dân.
Vậy, việc mở rộng và phát huy dân chủ là xu hướng tất yếu khách quan của tiến bộ xã hội, nhất là trong điều kiện hiện nay, khi nước ta đang tiến trình hội nhập sâu rộng trong khu vực và quốc tế. Thực tiễn và lý luận đã khẳng định tính tất yếu của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, vì mục tiêu của chủ nghĩa xã hội không gì khác hơn là đảm bảo dân chủ cho giai cấp công nhân và nhân dân lao động, khẳng định quyền lực chính trị thuộc về nhân dân. Chính vì lẽ đó, việc xây dựng chủ nghĩa xã hội là tiến tới một xã hội có dân chủ, một xã hội không còn sự tha hóa, người bóc lột người, một cộng đồng người lao động tự do và sáng tạo phát triển toàn diện./.
[1] Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH, Nxb Sự thật, Hà Nội
[2] Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Sự thật, Hà Nội, tr.143
[3] Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,tr.81
[4] Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.76
[5] Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, tr.38
[6] Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, tr.169
[7] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I, NXb CTQGST, H. 2021, tr.173
[8] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I, NXb CTQGST, H. 2021, tr.27
[9] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I, NXb CTQGST, H. 2021, tr.171
[10] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I, NXb CTQGST, H. 2021, tr.173
[11] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I, NXb CTQGST, H. 2021, tr.174